Yin (nghĩa Âm theo tiếng Việt) là một tính từ, tuy vậy Yin đôi khi cũng được sử dụng như một danh từ. Dù là Âm và Dương thì cũng chỉ mang tính tương đối: không có gì tuyệt đối âm hoặc tuyệt đối dương. Hãy xem biểu tượng thái cực này. Hãy thấy rằng ngay cả trong tối, phần nửa âm vẫn có một chấm sáng, biểu hiện dương và ngược lại. Hãy nhận thấy năng lượng dịch chuyển giữa hai nửa này: âm chuyển thành dương và dương chuyển thành âm.
Yin mô tả những thứ tương đối tối hơn, dày đặc hơn, mát mẻ hơn, ẩn giấu, nội tâm hơn, nữ tính hơn, bí ẩn hơn. Nó thực sự hàm ý về bên kia ngọn đồi hoặc dòng sông đầy bóng mát. Trong khi đó Yang mô tả những thứ tương đối sáng hơn, nhẹ hơn, ấm hơn, những thứ hiển nhiên và thuộc bề nổi hơn. Nó hàm ý bên kia đồi hoặc dòng sông đầy ánh nắng. Yin cũng tương đối ẩm ướt hơn trong khi yang khô thoáng hơn. Chúng ta cũng tìm thấy những phẩm chất này trong thực hành yoga. Nhìn chung, kiểu luyện tập thiên về thể lực, nóng, mạnh mẽ được xem là yang/ dương, khi so sánh với kiểu tập yên tĩnh hơn, mát lạnh và bị động hơn. Ví dụ yoga phục hồi sẽ mang tính âm nếu so sánh với vinyasa, tính dương.
Việc thực hành Yin Yoga kết hợp các yếu tố âm như bị động, không nỗ lực, chịu lực căng lâu tác động lên mô âm trong cơ thể – mạc bao gồm dây chằng, gân, bao khớp và kể cả xương. Có 3 hoặc 4 nguyên tắc chung được áp dụng trong lúc tập Yin, do Paul Grilley phát triển.
1. Khi bắt đầu vào tư thế, hãy đi đến điểm dừng đầu tiên và thư giãn ở đó (đừng thúc ép đi xa hơn giới hạn). Tại đây bạn sẽ nhận một lực căng đủ thử thách, nhưng chưa đến mức tối đa (lực căng tối đa là luyện tập yang rồi)
2. Một khi bạn đến điểm giới hạn phù hợp, nơi bạn cảm nhận một lực căng vừa phải, thì hãy thả lỏng. Giữ yên. Nếu giới hạn của bạn dịch chuyển, lúc đó không còn thử thách trên cơ thể nữa, bạn có thể di chuyển để tìm một giới hạn mới. Nhưng lưu ý chúng ta không tìm kiếm phạm vi chuyển động lớn tối đa (theo kiểu yang); mà chúng ta đang tìm kiếm những cảm nhận cơ thể phù hợp ( theo kiểu yin)
3. Giữ yên tư thế một lúc. Thời gian giữ thế khác nhau tùy vào mỗi người, mỗi tư thế, nhưng nhìn chung là từ 1 đến 10 phút. Khi các cảm nhận cơ thể trở nên dữ dội (quá yang), là lúc lùi lại hoặc ra khỏi tư thế ( mang phẩm chất yin). Thời gian giữ thế quan trọng hơn việc có được cảm nhận tư thế dữ dội. Bạn cứ thong thả ở trong tư thế lâu hơn thay vì tiến sâu vào tư thế hơn.
4. Khi ra khỏi một tư thế, di chuyển chậm, cẩn thận. Các tư thế yin chủ đích tạo ra một cảm giác mệt yếu khi thoát thế, vì thực tế bạn đã kéo dãn cơ thể trong một thời gian. Cho phép cơ thể chậm rãi tận hưởng cảm giác hồi phục trở lại, giữa các tư thế.
Thực hành yoga tác động lên chúng ta nhiều phương diện: thể chất, cảm xúc, tinh thần và thậm chí cả tâm linh. Yin Yoga cũng vậy. Ở mức độ vật lý, các tư thế được giữ lâu tạo ra lực căng cơ học lên các mô mạc. Những lực căng này thực sự cần thiết để phục hồi và duy trì sức khỏe mô cơ thể. Nhưng cũng như mọi thứ khác trong cuộc sống, bạn cũng có khả năng làm một điều gì đó thái quá. Khi bị đau trong lúc tập hoặc thoát thế, có khả năng là bạn đã đi quá sâu trong tư thế hoặc giữ thế quá lâu. Hãy điều chỉnh việc tập luyện để những cám giác đau không xuất hiện nữa. Tìm kiếm sự cân bằng, không quá nhiều cũng không quá ít.
Về mặt thể chất, mục đích của Yin yoga là tạo ra một áp lực vừa phải lên mô mạc và duy trì áp lực ở những nơi này một thời gian phù hợp. Lưu ý, mục đích của Yin không phải là để tăng phạm vi chuyển động, mặc dù khả năng này có thể diễn ra, và nếu bạn không bị đau, thì không vấn đề gì cả. Về mặt ý tâm lý – cảm xúc, Yin giúp tạo ra sự có mặt, chú tâm đến cảm nhận cơ thể, hoặc quan sát hơi thở hoặc dòng chảy năng lượng bên trong.
Những gì tôi đã mô tả là phong cách của Yin Yoga mà tôi học được từ Sarah Powers và Paul Grilley; tuy nhiên, cũng có những kiểu thực hành khác cũng có tên là Yin Yoga. Lịch sử đằng sau một số thực hành này và cách đặt tên của chúng, và sự khác biệt giữa chúng và những gì tôi gọi là Yin Yoga, có thể được tìm thấy ở trang www.yinyoga.com
Nguồn_www.yinyoga.com
Dịch_YINYOGASAIGON